Thị Kiều Oánh Đoàn, Văn Khảng Lê, Thị Thu Thảo Nguyễn, Thị Khơi Nguyễn, Thị Hoàng Yến Nguyễn, Đăng Lưu Vũ
{"title":"研究结果表明,在高危部位使用高频燃烧治疗肝癌。","authors":"Thị Kiều Oánh Đoàn, Văn Khảng Lê, Thị Thu Thảo Nguyễn, Thị Khơi Nguyễn, Thị Hoàng Yến Nguyễn, Đăng Lưu Vũ","doi":"10.55046/vjrnm.49.775.2022","DOIUrl":null,"url":null,"abstract":"Đặt vấn đề: Đốt sóng cao tần là một phương phát điều trị triệt căn điều trị có hiệu quả cao ở giai đoạn rất sớm( BCLC 0) và giai đoạn sớm( BCLC A). Tuy nhiên, với các khối u ở vị trí nguy cơ thì việc đốt sóng cao tần gặp nhiều khó khăn trong việc xác định khối u trên siêu âm và nguy cơ tổn thương các tạng lân cận. \nMục tiêu: Đánh giá kết quả sớm điều trị ung thư biểu mô tế bào gan ở vị trí nguy cơ bằng phương pháp đốt sóng cao tần. \n Đối tượng và phương pháp: 50 bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan ở vị trí nguy cơ được tiến hành đốt sóng ở trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai. Sau đó, đánh giá hiệu quả điều trị tại thời điểm 3 tháng. \nKết quả: Nghiên cứu trên 50 bệnh nhân (41 nam và 9 nữ), tuổi trung bình là 61.63 tuổi, trong đó, bệnh nhân lớn tuổi nhất là 86 tuổi, bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 35 tuổi. 94% bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan có tiền sử xơ gan và 88% bệnh nhân có tiền sử viêm gan. Trong các khối u ở vị trí nguy cơ, tỷ lệ khối u ở gần vòm hoành chiếm tỷ lệ cao nhất 42.1%. Chúng tôi tiến hành bơm dịch ổ bụng 20 trường hợp(40%) và bơm dịch màng phổi 14 trường hợp(28%). Theo dõi trong vòng 3 tháng sau điều trị, không có trường hợp nào xảy ra biến chứng nặng, có 7 trường hợp xẹp phổi tạm thời( 20.6%). Tỷ lệ khối u đáp ứng hoàn toàn là 92%, tỷ lệ khối u đáp ứng không hoàn toàn là 4%. 2 bệnh nhân xuất hiện nốt mới(4%). \n Kết luận: Đốt sóng cao tần là một phương áp xâm lấn tối thiểu, an toàn, hiệu quả cho các khối u ở vị trí nguy cơ.","PeriodicalId":310894,"journal":{"name":"Vietnamese Journal of Radiology and Nuclear Medicine","volume":"234 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0000,"publicationDate":"2022-11-30","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":"0","resultStr":"{\"title\":\"Nghiên cứu kết quả sớm điều trị ung thư biểu mô tế bào gan ở vị trí nguy cơ bằng đốt sóng cao tần\",\"authors\":\"Thị Kiều Oánh Đoàn, Văn Khảng Lê, Thị Thu Thảo Nguyễn, Thị Khơi Nguyễn, Thị Hoàng Yến Nguyễn, Đăng Lưu Vũ\",\"doi\":\"10.55046/vjrnm.49.775.2022\",\"DOIUrl\":null,\"url\":null,\"abstract\":\"Đặt vấn đề: Đốt sóng cao tần là một phương phát điều trị triệt căn điều trị có hiệu quả cao ở giai đoạn rất sớm( BCLC 0) và giai đoạn sớm( BCLC A). Tuy nhiên, với các khối u ở vị trí nguy cơ thì việc đốt sóng cao tần gặp nhiều khó khăn trong việc xác định khối u trên siêu âm và nguy cơ tổn thương các tạng lân cận. \\nMục tiêu: Đánh giá kết quả sớm điều trị ung thư biểu mô tế bào gan ở vị trí nguy cơ bằng phương pháp đốt sóng cao tần. \\n Đối tượng và phương pháp: 50 bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan ở vị trí nguy cơ được tiến hành đốt sóng ở trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai. Sau đó, đánh giá hiệu quả điều trị tại thời điểm 3 tháng. \\nKết quả: Nghiên cứu trên 50 bệnh nhân (41 nam và 9 nữ), tuổi trung bình là 61.63 tuổi, trong đó, bệnh nhân lớn tuổi nhất là 86 tuổi, bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 35 tuổi. 94% bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan có tiền sử xơ gan và 88% bệnh nhân có tiền sử viêm gan. Trong các khối u ở vị trí nguy cơ, tỷ lệ khối u ở gần vòm hoành chiếm tỷ lệ cao nhất 42.1%. Chúng tôi tiến hành bơm dịch ổ bụng 20 trường hợp(40%) và bơm dịch màng phổi 14 trường hợp(28%). Theo dõi trong vòng 3 tháng sau điều trị, không có trường hợp nào xảy ra biến chứng nặng, có 7 trường hợp xẹp phổi tạm thời( 20.6%). Tỷ lệ khối u đáp ứng hoàn toàn là 92%, tỷ lệ khối u đáp ứng không hoàn toàn là 4%. 2 bệnh nhân xuất hiện nốt mới(4%). \\n Kết luận: Đốt sóng cao tần là một phương áp xâm lấn tối thiểu, an toàn, hiệu quả cho các khối u ở vị trí nguy cơ.\",\"PeriodicalId\":310894,\"journal\":{\"name\":\"Vietnamese Journal of Radiology and Nuclear Medicine\",\"volume\":\"234 1\",\"pages\":\"0\"},\"PeriodicalIF\":0.0000,\"publicationDate\":\"2022-11-30\",\"publicationTypes\":\"Journal Article\",\"fieldsOfStudy\":null,\"isOpenAccess\":false,\"openAccessPdf\":\"\",\"citationCount\":\"0\",\"resultStr\":null,\"platform\":\"Semanticscholar\",\"paperid\":null,\"PeriodicalName\":\"Vietnamese Journal of Radiology and Nuclear Medicine\",\"FirstCategoryId\":\"1085\",\"ListUrlMain\":\"https://doi.org/10.55046/vjrnm.49.775.2022\",\"RegionNum\":0,\"RegionCategory\":null,\"ArticlePicture\":[],\"TitleCN\":null,\"AbstractTextCN\":null,\"PMCID\":null,\"EPubDate\":\"\",\"PubModel\":\"\",\"JCR\":\"\",\"JCRName\":\"\",\"Score\":null,\"Total\":0}","platform":"Semanticscholar","paperid":null,"PeriodicalName":"Vietnamese Journal of Radiology and Nuclear Medicine","FirstCategoryId":"1085","ListUrlMain":"https://doi.org/10.55046/vjrnm.49.775.2022","RegionNum":0,"RegionCategory":null,"ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":null,"EPubDate":"","PubModel":"","JCR":"","JCRName":"","Score":null,"Total":0}
Nghiên cứu kết quả sớm điều trị ung thư biểu mô tế bào gan ở vị trí nguy cơ bằng đốt sóng cao tần
Đặt vấn đề: Đốt sóng cao tần là một phương phát điều trị triệt căn điều trị có hiệu quả cao ở giai đoạn rất sớm( BCLC 0) và giai đoạn sớm( BCLC A). Tuy nhiên, với các khối u ở vị trí nguy cơ thì việc đốt sóng cao tần gặp nhiều khó khăn trong việc xác định khối u trên siêu âm và nguy cơ tổn thương các tạng lân cận.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm điều trị ung thư biểu mô tế bào gan ở vị trí nguy cơ bằng phương pháp đốt sóng cao tần.
Đối tượng và phương pháp: 50 bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan ở vị trí nguy cơ được tiến hành đốt sóng ở trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai. Sau đó, đánh giá hiệu quả điều trị tại thời điểm 3 tháng.
Kết quả: Nghiên cứu trên 50 bệnh nhân (41 nam và 9 nữ), tuổi trung bình là 61.63 tuổi, trong đó, bệnh nhân lớn tuổi nhất là 86 tuổi, bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 35 tuổi. 94% bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan có tiền sử xơ gan và 88% bệnh nhân có tiền sử viêm gan. Trong các khối u ở vị trí nguy cơ, tỷ lệ khối u ở gần vòm hoành chiếm tỷ lệ cao nhất 42.1%. Chúng tôi tiến hành bơm dịch ổ bụng 20 trường hợp(40%) và bơm dịch màng phổi 14 trường hợp(28%). Theo dõi trong vòng 3 tháng sau điều trị, không có trường hợp nào xảy ra biến chứng nặng, có 7 trường hợp xẹp phổi tạm thời( 20.6%). Tỷ lệ khối u đáp ứng hoàn toàn là 92%, tỷ lệ khối u đáp ứng không hoàn toàn là 4%. 2 bệnh nhân xuất hiện nốt mới(4%).
Kết luận: Đốt sóng cao tần là một phương áp xâm lấn tối thiểu, an toàn, hiệu quả cho các khối u ở vị trí nguy cơ.